Nấm phổi là một trong những bệnh lí rất dễ gặp khi chăn nuôi vịt theo bầy đàn số lượng lớn. Xét về mức độ nguy hiểm và nghiêm trọng thì bệnh này còn khá nhẹ, không gây chết với các cá thể mắc bệnh nhưng để lại di chứng cho vịt. Các di chứng thường gặp đó là vịt bệnh sẽ thường chán ăn, ăn ít, chậm phát triển và chậm hoạt động khiến cho chất lượng thịt sẽ thấp. Cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các dịch bệnh khác thừa cơ xâm nhập và gây nhiều thiệt hại hơn nữa. Vậy đây có phải là một căn bệnh nguy hiểm hay không? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu kĩ hơn nhé!
Nguyên nhân
Bệnh nấm phổi trên vịt do nấm Aspergillus gây ra, có nhiều loài; trong đó Aspergillus fumigatus là phổ biến. Bào tử nấm phát triển trên thức ăn (ngô, đậu nành, lúa,…) rơm rạ, chất độn chuồng.
Bệnh thường xảy ra do chuồng trại kém thông thoáng; ẩm độ cao là điều kiện thích hợp để bệnh phát sinh. Bệnh xảy ra do vịt nuốt phải bào tử nấm; vào cơ thể gây ra những nốt hay những mảng trong phổi và các túi khí.
Cách phát bệnh
Vịt hít bào tử nấm như trong không khí, máy ấp, máy nở, chất độn chuồng; bào tử nấm vào phổi và phát triển thành ổ nấm, gây ảnh hưởng hô hấp; và độc tố của nấm có thể gây độc cho vịt, gây chết vịt. Bệnh thường xảy ra vào thời tiết nóng ẩm, điều kiện tốt để nấm phát triển.
Triệu chứng
Bệnh thường xảy ra quá cấp tính hoặc cấp tính đối với vịt con. Vịt 5 ngày tuổi đã có thể phát bệnh (hít bào tử nấm từ máy ấp); thông thường bệnh xảy ra ở vịt 2 – 4 tuần tuổi.
Lúc đầu, vịt chết đột ngột, thể trạng bình thường, sau đó một số có biểu hiện như; kém ăn, thở khó, nhịp thở tăng, khi bắt vịt lên thấy rõ tiếng thở lách tách từ phổi.
Vịt khô chân, khô mỏ, tiêu chảy, một số con có triệu chứng co giật; (do độc tố nấm ảnh hưởng đến thần kinh) vịt gầy dần và chết.
Bệnh tích
Bệnh tích chủ yếu trên phổi: Các hạt nấm màu trắng hoặc vàng trên phổi; hạt nấm có thể như hạt gạo, rắn, nếu bệnh nặng, cắt phổi thấy hạt nấm choán các phế nang; phế quản làm phổi đặc, chắc, khi thả xuống nước, phổi lơ lửng hoặc chìm.
Một số trường hợp, nấm lan sang màng phổi, túi khí, kế phát vi khuẩn gây viêm.
Chẩn đoán
– Dựa vào triệu trứng và bệnh tích điển hình như trên để chẩn đoán bệnh.
– Chẩn đoán phân biệt, bệnh dễ nhầm lẫn với bệnh đường hô hấp (CRD) và bệnh do E.coli thể viêm túi khí.
Bệnh đường hô hấp (CRD): vịt khó thở nhưng có nhiều dịch đường hô hấp, chảy nước mắt; nước mũi, thường tiếng thở ướt. Bệnh nấm phổi: vịt khó thở, không có nhiều dịch đường hô hấp; không chảy nước mắt, nước mũi, thường tiếng thở khô.
Bệnh do E.coli thể viêm túi khí và bệnh nấm phổi: vịt khó thở, không có nhiều dịch đường hô hấp; không chảy nước mắt, nước mũi, thường tiếng thở khô; do đó phải mổ khám vịt ốm, vịt chết để chẩn đoán chính xác.
Phòng bệnh
Thường xuyên vệ sinh, định kỳ khử trùng môi trường khu ấp, nở, chuồng nuôi, các dụng cụ; thiết bị chăn nuôi, đặc biệt mùa mưa ẩm, không để nấm mốc phát triển.
Sử dụng chất độn chuồng mới, sạch, không nấm mốc, bụi bẩn; được phơi khô, phun khử trùng.
Chăm sóc nuôi dưỡng vịt tốt, vịt khỏe mạnh sẽ hạn chế mắc bệnh.
Trị bệnh
Tìm và cắt đứt nguồn bệnh, nếu nấm trong chất độn chuồng thì phải thay ngay; chất độn chuồng mới, sạch, không nấm mốc.
Chọn loại những con vịt mắc bệnh nặng vì điều trị không hiệu quả.
Chọn riêng những con có biểu hiện khó thở ra 1 ô để điều trị tích cực và chăm sóc riêng sẽ tốt hơn.
Dùng 1 trong các loại thuốc sau để điều trị cho vịt mắc bệnh: Nistatin, Mycostatin, nếu thuốc thú y; thì dùng liều theo hướng dẫn của nhà sản xuất, nếu thuốc Nistatin của nhân y; loại 500.000 UI/viên, dùng 1 viên/2 – 3 kg khối lượng vịt, dùng 5 – 7 ngày liên tục tùy mức độ; của bệnh (nên cân vịt để tính liều lượng thuốc cho chính xác).
Kết hợp bổ sung vitamin, thuốc trợ sức, trợ lực cho vịt.
Khi điều trị bệnh, việc tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng, cải thiện môi trường chăn nuôi; tăng thông thoáng và vệ sinh là điều quan trọng, giúp vịt nhanh hồi phục.
Nguồn: Channuoi.com.vn