Dịch tả vịt – Dịch bệnh nguy hiểm bà con cần biết!
Hiện nay, các loại chủng bệnh dịch trên gia cầm đang ngày một trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Người chăn nuôi vẫn luôn đau đầu vì hậu quả và di chứng với đàn gia cầm sau mỗi lần các cơn dịch bệnh đi qua. Ở vịt, dịch tả là nguyên nhân khiến không ít bà con chăn nuôi thoái chí. Bởi mức độ lấy lan và nguy hiểm của nó thật sự rất lớn. Hôm nay chúng tôi sẽ tổng quát về loại bệnh này để bà con có thể có những phương án tối ưu trong chăn nuôi gia cầm đặc biệt là chăn nuôi vịt!
Dịch tễ học
- Bệnh được ghi nhận ở nhiều nước trên thế giới như tại Pháp (1949); Trung Quốc (1958), Ấn Độ (1963), các nước châu Âu đều thông báo có dịch như Bỉ (1964); Anh (1972), Đức, Hungari và Italia (1973), Đan Mạch (1983), Việt Nam (1969), ….
- Ở Việt Nam, bệnh xảy ra trên toàn quốc, đặc biệt ở những vùng có nghề chăn nuôi vịt; phát triển và gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi loại thủy cầm này.
Nguyên nhân
- Bệnh dịch tả vịt có thể lây truyền trực tiếp do sự tiếp xúc giữa vịt khỏe và vịt ốm hoặc vịt mang trùng. Bệnh có thể lây gián tiếp qua thức ăn; nước uống, dụng cụ chăn nuôi và bãi chăn thả bị ô nhiễm.
- Trong cơ thể vịt bệnh, virus có trong máu, dịch nội tiết; các cơ quan nội tạng, nhiều nhất ở gan, lách và não.
- Vịt bệnh đào thải virus theo phân và dịch bài xuất. Nguồn nước nhiễm virus và động vật thủy sinh trong nguồn nước cũng chứa virus; trong một thời gian nhất định nên có vai trò truyền bệnh.
- Nếu cho vịt khỏe tiếp xúc với nước ao tù, hoặc nơi đã chăn thả vịt bệnh sẽ bị lây bệnh.
- Vịt mẹ mang bệnh truyền virus qua trứng. Những vịt con nở ra từ trứng mang virus đều bài thải virus qua phân. Sự truyền dọc làm giảm tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ ấp nở
Cơ chế sinh bệnh
Sau khi xâm nhập vào cơ thể, virus dịch tả vịt nhân lên ở niêm mạc đường tiêu hóa, đặc biệt ở niêm mạc thực quản và lỗ huyệt. Sau đó virus xâm nhập vào máu, làm tăng tính thấm thành mạch gây hiện tượng xuất huyết điểm ở nhiều cơ quan nội tạng như: lách, gan, túi Fabricius, tuyến ức.
Triệu chứng bệnh dịch tả vịt
Ở những đàn vịt bị bệnh lúc đầu xuất hiện những con lờ đờ; không thích vận động, không muốn xuống nước. Trên đàn vịt lớn, khi chăn thả có một số con rớt lại sau đàn do chân bị liệt; vịt có hiện tượng chết đột ngột. Vịt đẻ khi bị bệnh, sản lượng trứng giảm xuống, thậm chí ngừng đẻ. Vịt đực bị bệnh có hiện tượng sa dịch hoàn.
Từ mũi chảy ra chất niêm dịch lúc đầu trong sau đặc lại, khô quánh bám quanh khóe mũi. Vịt bị sưng đầu, có con lông đầu dựng lên như mào; khi sờ nắn có cảm giác đầu mềm như “chuối chín”. Hầu, cổ sưng to do tổ chức liên kết dưới da bị phù thũng. Vịt khi vận động có hiện tượng run đầu, cổ hoặc toàn thân.
Vịt mới bị bệnh khát nước, sau vài ngày thấy tiếu chảy, phân loãng, màu trắng xanh; thối khắm, hậu môn bẩn, lông xung quanh dích bết phân. Vịt con 2 – 7 tuần tuổi có hiện tượng có hiện tượng mất lưỡng, khối lượng cơ thể giảm; mỏ có màu xanh, viêm kết mạc mắt, chảy nước mắt, nước mũi; và có lẫn các vệt máu tươi. Đến ngày thứ 6 – 7, vịt gầy rạc, liệt, nằm một chỗ, thân nhiệt giảm dần, con vật kiệt sức mà chết.
Bệnh tích bệnh dịch tả vịt
Bệnh tích biểu hiện khác nhau tùy thuộc theo độc lực của virus, giống và sức đề kháng của cơ thể vịt. Xác chết gầy, đầu, cổ sưng, tụ máu tính bầm; tổ chức dưới da thấm nước keo nhầy, trong màu hồng nhạt. Da vùng đầu, cổ, ngực, bụng, đùi xuất huyết lấm tấm giống muỗi đốt.
Niêm mạc hầu, họng, thực quản viêm, xuất huyết, đôi chỗ có vết loét phủ màng giả; màu vàng xám do thượng bì bong tróc ra. Dạ dày tuyến phủ nhiều dịch nhớt giống như mủ, gạt lớp niêm dịch thấy niêm mạc xuất huyết. Niêm mạc ruột viêm cata, tụ máu và xuất huyết; có những vết loét, nhất là tá tràng và trực tràng.
Thận và tuyến tụy ít bị ảnh hưởng, xoang bụng có dịch thẩm xuất màu vàng. Ở những con vịt đẻ, mạch máu buồng trứng căng phồng, có trường hợp xuất huyết. Trứng non méo mó, noãn hoàng vỡ chứa đầy trong xoang bụng.
Chẩn đoán
Chẩn đoán lâm sàng
- Chẩn đoán bệnh dịch tả vịt dựa vào các triệu chứng lâm sàng và mổ khám bệnh tích. Tuy nhiên, vẫn cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh như. Viêm gan do virus của vịt, bệnh dịch tả ngỗng, Tụ huyết trùng gia cầm và bệnh Cúm gia cầm thể độc lực cao.
Chẩn đoán phi lâm sàng
- Sử dụng các phản ứng huyết thanh học để chẩn đoán bệnh như phản ứng mễn dịch huỳnh quang; phản ứng ELISA, phản ứng ngưng kết hồng cầu gián tiếp.
- Sử dụng phương pháp PCR để chẩn đoán bệnh dịch tả vịt với kỹ thuật iiPCR thực địa; giúp chẩn đoán nhanh từ 1 – 2 giờ mà kết quả vẫn chính xác như các kỹ thuật PCR phòng thí nghiệm khác.
Compo Pockit PCR chẩn đoán nhanh bệnh trên gia cầm
Phòng bệnh
Ở những nơi chưa có dịch xảy ra, tốt nhất nên tự sản xuất con giống. Tránh để thức ăn, chuồng nuôi, nguồn thức ăn, bãi chăn ô nhiễm căn bệnh. Không nên chăn thả vịt ở những nơi đang có dịch. Những trại vịt có số lượng lớn cần tăng cường vệ sinh chuồng trại; thực hiện nghiêm túc nội quy phòng bệnh.
Với vịt đẻ và vịt giống cần tiêm nhắc lại sau 45 ngày và sau mỗi 6 tháng; tái chủng một lần trước khi vịt vào vụ đẻ. Tiêm phòng vaccine rất quan trọng, vaccine rất an toàn. Khi dịch xảy ra tiêm thẳng vacxin dịch tả vịt vào ổ dịch sẽ cứu sống vịt; nhưng hiện nay đã có kháng thể dịch tả vịt thương mại nên phương pháp này ít được sử dụng.
Cách điều trị bệnh dịch tả vịt
Hiện nay đã có kháng thể dịch tả vịt thương mại nên việc điều trị bệnh dịch tả vịt đơn giản; giảm thiệt hại hơn trước rất nhiều.
Khi vịt mắc bệnh:
- Đối với vịt dưới 2 tuần tuổi tiêm 1ml/con nhắc lại sau 3 ngày.
- Đối với vịt trên 2 tuần tuổi tiêm 1.5 – 2ml/con nhắc lại sau 3 ngày.
- Trường hợp số lượng đàn quá lớn không thể tiêm, dùng kháng thể dịch tả vịt hòa nước cho vịt uống với liều gấp đôi liều tiêm.
Bổ sung đường gluco, chất điện giải, vitamin nâng cao sức đề kháng cho vịt.
Phân rác phải ủ nóng, chuồng trại phải tẩy uế, sát trùng bằng các dung dịch formol 3% – 5%; NaOH 2% hoặc nước vôi đặc. Để trống chuồng 1 tháng mới nhập vịt.
Nguồn: Happyvet.vn